Một đời sống cùng vô lăng, một thời hiên ngang đi qua mưa bom bão đạn của kẻ thù, đội nữ chiến sỹ lái xe Trường Sơn từng được mệnh danh là "những tài xế có một không hai trên thế giới".
Ký ức về đời lính lái xe như vẫn nguyên vẹn trong cả những giấc mơ thường nhật. Bà Nguyễn Thị Hòa, Trưởng ban liên lạc đơn vị nữ lái xe Trường Sơn rưng rưng nhớ lại lời đồng chí trước khi mất, nắm chặt tay mình mà dặn: "Đời có thể quên chúng mình nhưng chúng mình đừng bao giờ quên nhau nhé". Quyết định lịch sử ra đời đoàn xe lịch sử Tôi tìm đến khu nhà tập thể của quân đội nằm trên đường Phú Thụy, Gia Lâm, Hà Nội, may mắn gặp được hai trong số gần 40 nữ dũng sỹ "Đại bàng" của Trường Sơn năm xưa. Một người là chính trị viên đại đội còn một người được chính vị chính trị viên đại đội của mình gọi là "tay lái lụa", "mặn lòng" với vô lăng cho đến tuổi về hưu. Bà là nữ chiến sỹ lái xe Vũ Thị Kim Dung (SN 1948), Tiểu đội trưởng, Tiểu đội 2, Trung đội nữ lái xe mang tên Anh hùng Quân giải phóng miền Nam Nguyễn Thị Hạnh. Sau 3 năm Thanh Phong (thanh niên xung phong - PV) ở công trường 130 xây dựng sân bay quốc phòng Yên Bái, bà "Nam tiến" theo tiếng gọi thiêng liêng của cuộc tổng động viên năm 1968. Chuyến tàu định mệnh đưa bà và rất nhiều chiến sỹ từ Yên Bái về ga Phủ Lý, rồi hành quân vào Quảng Bình hết khoảng 2 tháng. Trước yêu cầu cấp thiết của lịch sử, Bộ tư lệnh đoàn 559 đã ra quyết định táo bạo thành lập một đơn vị nữ lái xe, hỗ trợ cho kho trạm thay các lái xe nam ra trận. Một cuộc tuyển lựa nhanh chóng tại Binh trạm 9 và Binh trạm 12 hình thành một trung đội với 35 lái xe, 5 thợ sửa chữa, tất cả đều là nữ. Bà Dung chia sẻ: "Nữ giới lái xe vất vả hơn nam giới rất nhiều. Đất nước cần nhất ở chúng tôi khi đó là và lòng gan dạ. Chúng tôi lái xe trên khắp các tuyến đường 12, 18, 20, 22, địa bàn cơ bản là từ Bến Thủy đến Tây Trường Sơn. Xe chở bộ đội từ điểm tập kết bên Lào (do Mỹ đánh phá ác liệt, phía Việt Nam phải nhờ điểm tập kết và đường đi vào miền Nam qua địa phận nước bạn - PV) vào bờ Bắc sông Gianh, rồi lại đón thương binh ra Hà Tĩnh xuống ca nô đi ra Bắc. Xe chạy hoàn toàn vào ban đêm". Bà Dung mỉm cười, chỉ tay vào hai chiếc răng cửa sứt mẻ một miếng khá lớn, cho biết: "Nó là kỷ niệm của một thời mà dù xấu, tôi vẫn giữ lại. Lần đó, xe hỏng phanh giữa đường, tôi phải chui xuống gầm xe, nằm ngửa lên mà giật mạnh tay quá, chiếc phanh bật ngược lại, va ngay vào hai răng cửa”. Những tay lái chinh phục dãy Trường Sơn
Cũng theo trí nhớ của bà Dung, mỗi nữ chiến sỹ lái xe phải tự đảm trách cả việc mút xăng đổ vào xe. "Bây giờ, ai ai cũng sợ mùi xăng dầu. Nhưng chúng tôi đã từng dùng ống Tuy - ô (một dạng ống dây rỗng - PV), dùng miệng trực tiếp mút xăng vào can rồi đổ vào xe mình. Xe ai người ấy chịu trách nhiệm, đâu có được ra cửa hàng và có máy bơm xăng như bây giờ. Biết là rất độc hại, nhưng ăn ngủ với dầu, với xăng mãi mà thành quen. Vì nhiệm vụ cần kíp, cũng chẳng ai nghĩ đến sự độc hại". Có những ngày trời mưa thối đất, người ướt sũng vẫn đảm bảo chuyến xe lưu thông đều đặn. Hai người một xe, thay nhau lái. Thời điểm mùa mưa đến, có những đợt cao điểm, cán bộ chỉ huy phải chỉ đạo dùng máy nổ để ưu tiên chị em phụ nữ hong khô quần áo. Những tháng mùa khô thì ngược lại, nước chỉ ưu tiên cho nhà bếp và phụ nữ dùng. Cuộc đời người nữ lái xe còn nhọc nhằn ở những kỳ "đến tháng". Thời điểm đó, điều kiện vật chất quá khó khăn, vải xô vải màn rất hiếm, “dính” phải trời mưa thì nhầy nhụa ướt sũng từ đầu đến chân. Biết là mất vệ sinh, nhưng không có cách nào khắc phục. Nghĩ lại, bà Dung vẫn không khỏi cảm giác rùng mình. Đội nữ lái chỉ được học gấp trong 45 ngày nhưng ai cũng biết lái đủ các loại xe, từ Gát 51, Gát 63, cho đến Jin 157, loại nặng nhất có đầu tời chuyên cứu các xe gặp nạn. Điều ám ảnh nhất là những lúc lái xe qua ngầm vào mùa mưa. Nước từ trên thác tràn xuống ngầm cuồn cuộn, tay lái không chắc, ý chí không cao, cái đầu không "lạnh" thì xe dễ dàng bị nước cuốn trôi. Có những khi máy chết đứng giữa ngầm, phải bắn súng cứu trợ để xe chuyên dụng đến thả dây tời và kéo xe vào bờ. Tuyến đường 12 khi đó có đoạn "cổng trời" vượt sang Lào luôn là thử thách nguy hiểm nhất với những cua ngược dựng đứng, đường đèo một bên là núi cao một bên là vực sâu thăm thẳm. Xe của đội hầu hết chạy vào ban đêm, chỉ có đèn quả táo nhỏ, lờ mờ. "Xế" hầu như lái xe bằng tọa độ. Thích nhất là đi những đêm sáng trăng. Khi đội Thanh Phong ra tín hiệu chỉ lên trời thì các chiến sỹ nữ lái xe lại vui vẻ ngó đầu ra khỏi cabin, giao lưu bằng một câu đùa: "Địch nó bắn pháo sáng soi đường cho chúng tớ đi đấy". Những bóng hồng bất khuất Nhiều lúc, nữ chiến sỹ lái xe cũng thấy có chút tủi thân. Nhưng thay vì buồn chán, họ có nhiều công việc phải làm nên không có thời gian để buồn chán, không cho phép mình buồn chán. Cuộc sống chỉ có nữ giới, từ việc bếp núc, đến vận chuyển, sửa chữa đều do phụ nữ làm. Sau năm 1971, đơn vị được chuyển ra Bắc về Binh trạm 23, hợp nhất thành Đại đội nữ lái xe Trường Sơn. Riêng bà Dung, tháng 12/1974, về lái xe cho Chủ nhiệm kho J112, cục Quản lý xe máy, Tổng cục Kỹ thuật cho đến lúc về hưu. Bà Nguyễn Thị Hòa, nguyên chính trị viên Đại đội nữ lái xe Trường Sơn thêm vào câu chuyện bằng nỗi nhớ rưng rưng: "Ngày xưa, với chúng tôi chẳng có gì sướng bằng tình cảm. Chị em xa quê sống với nhau như người một nhà. Có lần đi hành quân dài ngày, phải ngủ lại trên đường rừng, chị Viên (Đại đội trưởng Đại đội nữ lái xe Phùng Thị Viên - PV) biết tôi sức khỏe yếu, không chịu được mùi dầu xe nên không thể ngủ dưới gầm xe như các chị em khác. Chị đã tìm được một nhà dân và xin cho tôi ngủ nhờ. Người dân đồng ý cho mượn một chiếc giường đơn, chăn, màn. Lo cho tôi chỗ ngủ ấm cúng xong, chị Viên quay lại ngủ với cả đội. Tôi nằm trong nhà ấm, lại nghĩ thương các chị các em ngủ ở ngoài trời mà không ngủ được, bật dậy trở ra với đội. Đêm hôm ấy, mọi người đã nhường tôi ngủ trên cabin xe, mấy em còn dặn tôi nhớ mở cửa cabin cho đỡ bí hơi. Rồi cả đêm hôm đó, cứ nghĩ thương nhau mà không ngủ được. Nó đặc biệt, đi mãi cùng ký ức trong tôi. Khi chị Viên qua đời, Đại đội chúng tôi có tập trung khá đông thăm chị trên giường bệnh tại bệnh viện. Chẳng ai cầm được nước mắt khi chị nắm chặt tay tôi mà dặn rằng: "Đời có thể quên chúng mình nhưng chúng mình đừng bao giờ quên nhau nhé"".
Dương Thu |
0 nhận xét:
Đăng nhận xét